1. khái niệm cơ quan hành chính nhà nước
ở Việt Nam, các cơ quan hành chính nhà nước được hình thành từ các cơ quan năng lượng nhà nước cùng cấp. Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan chấp hành của Quốc hội. chính phủ do quốc hội thành lập. ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân. ban bình dân do Hội đồng bình dân cùng cấp bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm. chính quyền và ủy ban nhân dân các cấp hợp thành hệ thống cơ quan hành chính nhà nước.
Cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận hợp thành của bộ máy nhà nước, được thành lập để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước. nghiên cứu địa vị pháp lý hành chính của cơ quan hành chính nhà nước để xác định vai trò của cơ quan hành chính nhà nước với tư cách là chủ thể của quy phạm pháp luật hành chính, chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính. khi tham gia vào quan hệ hành chính – pháp luật, tùy từng trường hợp cụ thể mà xác định cơ quan hành chính nhà nước là chủ thể mang quyền lực nhà nước hay chủ thể tham gia quan hệ hành chính – pháp luật.
2. đặc điểm của cơ quan hành chính nhà nước
cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận của bộ máy nhà nước nên có những dấu hiệu chung của cơ quan nhà nước như sau:
– Cơ quan hành chính nhà nước có quyền nhân danh nhà nước khi tham gia quan hệ pháp luật để thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhằm đạt được lợi ích công cộng;
– Hệ thống cơ quan hành chính nhà nước có cơ cấu tổ chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định;
– các cơ quan hành chính của nhà nước được cấu thành và hoạt động theo quy định của pháp luật, có chức năng và dịch vụ pháp lý hành chính chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động của cơ quan hành pháp.
– Cơ quan hành chính nhà nước trực tiếp hoặc gián tiếp cấp dưới trực tiếp hoặc gián tiếp của cơ quan năng lượng nhà nước cùng cấp, chịu sự giám sát và báo cáo công việc trước cơ quan năng lượng nhà nước.
– các cơ quan hành chính nhà nước có hệ thống các đơn vị trực thuộc. các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. hầu hết các cơ quan có chức năng quản lý hành chính đều có đơn vị trực thuộc. ví dụ: các trường đại học trực thuộc bộ giáo dục và đào tạo; các tập đoàn, công ty, nhà máy trực thuộc Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giao thông vận tải; công an, quân đội trực thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng …
Tóm lại, cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, trực tiếp hoặc gián tiếp cấp dưới trực tiếp hoặc gián tiếp của các cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp, phương diện hoạt động chủ yếu là chấp hành – hành chính, có tính chất hữu cơ. cơ cấu và thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
3. đặc điểm chung của cơ quan hành chính nhà nước với cơ quan nhà nước
cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận của bộ máy nhà nước nên cũng có những đặc điểm chung của cơ quan nhà nước sau đây:
– cơ quan hành chính nhà nước có quyền nhân danh nhà nước khi tham gia vào các quan hệ pháp luật để thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhằm đạt được lợi ích công cộng. biểu hiện của quyền lực nhà nước ở chỗ: cơ quan hành chính nhà nước có quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật như nghị định, quyết định, chỉ thị và có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính nhà nước.
– hệ thống cơ quan hành chính nhà nước có cơ cấu tổ chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn do pháp luật quy định. nói cách khác, cơ quan hành chính nhà nước có tính độc lập tương đối về cơ cấu – tổ chức (cơ cấu tổ chức và các mối quan hệ công tác bên trong cơ quan được quy định ngay từ đầu, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của cơ quan hành chính nhà nước được quy định cụ thể trong pháp luật. các văn bản như luật tổ chức chính quyền năm 2015, luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.…
– Các cơ quan hành chính của nhà nước được cấu thành và hoạt động theo quy định của pháp luật, có chức năng, nhiệm vụ, năng lực riêng và duy trì mối quan hệ phối hợp trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao với các cơ quan khác của Nhà nước bộ máy mà mối quan hệ của nó được điều chỉnh bởi một cơ quan quyền lực nhất định do pháp luật quy định, nghĩa là tổng thể những quyền, nghĩa vụ chung và những quyền hạn cụ thể của quyền lực pháp luật do nhà nước trao cho để thực hiện các nhiệm vụ, chức năng của nhà nước. Đây là đặc điểm cơ bản để phân biệt cơ quan hành chính nhà nước với cơ quan ngoài nhà nước vì cơ quan, tổ chức đó không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
– Nguồn nhân lực chủ yếu của các cơ quan hành chính nhà nước là đội ngũ công chức, viên chức, được hình thành từ việc tuyển dụng, bổ nhiệm, bầu cử theo quy định của Luật cán bộ, công chức năm 2008.
Ngoài những đặc điểm chung với cơ quan nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước có những đặc điểm riêng do chính bản chất của hoạt động hành pháp quyết định: cơ quan hành chính nhà nước hoạt động thông qua những đặc điểm này và có thể phân biệt cơ quan hành chính nhà nước với các cơ quan nhà nước khác.
p>
4. đặc thù của cơ quan hành chính nhà nước
– cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan quản lý hành chính nhà nước. cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoạt động hành pháp – hành chính (tức là hoạt động được thực hiện trên cơ sở pháp luật và để thực thi pháp luật) nhằm thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước. do đó, hoạt động chấp hành – điều hành hay còn gọi là hoạt động quản lý hành chính nhà nước là mặt hoạt động chủ yếu của các cơ quan hành chính nhà nước.
Các cơ quan nhà nước khác cũng thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước nhưng đó không phải là mặt chính của hoạt động mà chỉ là hoạt động được thực hiện nhằm hoàn thành chức năng cơ bản của chính phủ. Các cơ quan nhà nước như: chức năng lập pháp của quốc hội, chức năng xét xử của toà án phổ thông và chức năng tài khoá của các cơ quan công tố bình dân. chỉ các cơ quan hành chính nhà nước mới thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, giáo dục … việc thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước là thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước.
– Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước được thành lập từ trung ương đến cơ sở do chính phủ đứng đầu, tạo thành một thể thống nhất, được tổ chức theo hệ thống thứ bậc, có mối quan hệ phụ thuộc chặt chẽ với nhau về tổ chức và chức năng thực hiện quyền. quản lý hành chính nhà nước.
– thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước được pháp luật quy định trên cơ sở lãnh thổ, ngành hoặc lĩnh vực chuyên môn chung. đó là các quyền và nghĩa vụ pháp lý hành chính chỉ giới hạn trong lĩnh vực hành pháp – các hoạt động điều hành.
– Cơ quan hành chính nhà nước trực tiếp hoặc gián tiếp cấp dưới trực tiếp hoặc gián tiếp của cơ quan năng lượng nhà nước cùng cấp, chịu sự giám sát và báo cáo công việc trước cơ quan năng lượng nhà nước.
– các cơ quan hành chính nhà nước có hệ thống các đơn vị trực thuộc. các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. hầu hết các cơ quan có chức năng quản lý hành chính đều có đơn vị cơ sở trực thuộc trung ương và địa phương. ví dụ: trường đại học trực thuộc bộ giáo dục và đào tạo, tổng công ty, công ty, nhà máy trực thuộc bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, bộ giao thông vận tải, bộ xây dựng …; các đơn vị quân đội, công an trực thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an …
5. phân loại cơ quan hành chính nhà nước
– Cơ quan hành chính nhà nước được phân thành nhiều loại khác nhau dựa trên các tiêu chí như phạm vi lãnh thổ, thẩm quyền, nguyên tắc tổ chức và giải quyết công việc.
– Theo phạm vi lãnh thổ, cơ quan hành chính nhà nước được chia thành hai loại: cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương và cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
– Cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương bao gồm chính phủ, các bộ và cơ quan ngang bộ. đây là các cơ quan hành chính nhà nước có chức năng quản lý hành chính nhà nước trên phạm vi toàn lãnh thổ, có vai trò quan trọng trong việc chỉ đạo các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. hầu hết các văn bản pháp luật do trách nhiệm trước hết là trách nhiệm cá nhân. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ là trung tâm lãnh đạo, quyết định của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ là quyết định của cơ quan.
6. phân tích hệ thống luật hành chính
luật hành chính là một hệ thống thống nhất các quy tắc có quan hệ hữu cơ với nhau, được chia thành hai phần: phần chung và phần riêng.
Sự phân chia này dựa trên thực tế khách quan là trong luật hành chính có những quy định có thể áp dụng trong quản lý hành chính nhà nước nói chung hoặc trong hầu hết các lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. chúng được coi là một phần chung của luật hành chính và các điều khoản còn lại được coi là các phần riêng biệt.
Trong luật hành chính, số lượng các quy phạm có tính chất chung tuyệt đối không nhiều (so với toàn bộ hệ thống quy phạm pháp luật hành chính) và về chủ đề của những gì thuộc về phần chung thì có nhiều ý kiến theo nhiều cách khác nhau. Nhiều tác giả rất quan tâm đến việc nghiên cứu phần chung nhưng không dành thời gian thích đáng cho phần riêng vì cho rằng viết phần riêng không phải là một nhiệm vụ khoa học. Kết quả của tầm nhìn này là họ không chia luật hành chính thành các phần chung và cụ thể, mà dành các chương độc lập cho các chủ đề liên quan đến một lĩnh vực nhất định hoặc hầu hết các lĩnh vực quản lý nhà nước.
nhưng nhìn chung, hầu hết các nhà khoa học nghiên cứu luật hành chính đều cho rằng luật hành chính bao gồm hai phần: phần chung và phần riêng.
những mối quan hệ này; hệ thống pháp luật hành chính và hiệu quả tác động của chúng đối với hoạt động hành chính nhà nước.
Nhiệm vụ của khoa học luật hành chính là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước; nghiên cứu, tổng kết thực tiễn tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, thực tiễn xây dựng và thực hiện pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước; rút ra những kết luận khoa học cả về lý luận và thực tiễn, đề xuất các ý tưởng hoàn thiện thể chế pháp luật hành chính.
Cơ sở lý luận của khoa học luật hành chính là chủ nghĩa Mác – Lê-nin, đặc biệt là triết học Mác – Lê-nin. do đó, phương pháp luận của khoa học luật hành chính là phương pháp luận duy vật biện chứng.
lenin – lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản, người đã nêu ra những lý luận cơ bản về tổ chức và quản lý nhà nước xã hội chủ nghĩa. các tác phẩm tiêu biểu về chủ đề này là: “những nhiệm vụ trước mắt của chính phủ Xô Viết”; “Chúng ta nên tổ chức lại bộ phận thanh tra lao động và nông nghiệp như thế nào”, “nên bớt đi”, “sáng kiến hay”, “kế hoạch kinh tế thống nhất”…
một nguồn tư liệu quan trọng cho khoa học luật hành chính là các chủ trương, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam. Các văn kiện, tác phẩm, bài phát biểu của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước là sự vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa và tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam nên có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển của khoa học luật hành chính.
khoa học luật hành chính coi trọng việc tham khảo các công trình nghiên cứu lý luận về khoa học luật hành chính
Cơ sở của luật hành chính là khoa học về luật hành chính. điều đó không có nghĩa là trong quá trình giảng dạy luật hành chính không được sử dụng các tài liệu liên quan đến các ngành khoa học khác. Khi giải thích các khái niệm, chúng ta thường phải sử dụng kết quả nghiên cứu của các ngành khoa học khác, nhưng việc sử dụng các tài liệu đó chỉ thực hiện chức năng bổ trợ, vì đối tượng nghiên cứu của quy phạm pháp luật hành chính không gì khác chính là quy phạm pháp luật hành chính.
môn học luật hành chính phải giải quyết hai khía cạnh của cùng một nhiệm vụ: cung cấp cho sinh viên kiến thức lý thuyết về luật hành chính và kỹ năng áp dụng nó vào thực tế.
Nhiệm vụ cung cấp kiến thức lý thuyết với nội dung đang thực hiện. học viên sẽ hiểu được bản chất của quy phạm pháp luật hành chính nói chung, cũng như các thể chế của nó, các quy luật khách quan quyết định bản chất của quy phạm pháp luật hành chính, nội dung của quy phạm pháp luật hành chính hiện hành và xu hướng phát triển khách quan. đối với hầu hết các vấn đề nêu trên, đã có sự thống nhất ý kiến. nhưng vẫn còn một số vấn đề gây tranh cãi. do đó, đối với các chủ đề có tầm quan trọng đặc biệt, ngoài việc nghiên cứu quan điểm chính thống, học sinh cũng phải làm quen với các quan điểm khác.
Nhiệm vụ cung cấp kỹ năng vận dụng kiến thức lý thuyết vào thực tiễn liên quan đến việc hình thành kỹ năng áp dụng các quy định pháp luật – hành chính trong các trường hợp cụ thể của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Để thực hiện nhiệm vụ này, sinh viên được làm quen với các tài liệu thực tế và giải các bài tập, qua đó sinh viên không chỉ được trang bị kiến thức về nội dung các quy phạm pháp luật hành chính mà còn được làm quen với các tình huống thực tế trong cuộc sống.
minh khuê luật (biên soạn và chỉnh sửa)