Nhà tâm lý học Sigmund Freud giới thiệu một số lý thuyết của Sigmund Freud

0
416

Freud là ai

1. chúng tôi giới thiệu cuộc đời của sigmund freud

sigmund freud (tên đầy đủ của ông là sigismund schlomo freud; sinh ngày 6 tháng 5 năm 1856 – mất ngày 23 tháng 9 năm 1939).

nhà tâm lý học sigmund freud sinh ra ở freiburg (một thị trấn nhỏ ở moravia, nay là một phần của cộng hòa Séc) và mất ở London, ông là cha đẻ của phân tâm học cổ điển.

cha anh là một thợ máy người Do Thái, một người đàn ông cứng rắn và gia trưởng. Khi còn nhỏ, cha của ông là Freud đã có sự đan xen giữa nỗi sợ hãi và tình yêu thương. Không giống như cha mình, mẹ của Freud là một người phụ nữ tốt bụng và chu đáo nên anh luôn cảm thấy có mối liên hệ chặt chẽ với bà. khi còn đi học, anh luôn là học sinh xuất sắc và tốt nghiệp trung học loại ưu.

freud theo học trường y, chuyên về thần kinh học và dành một năm ở Paris với áo khoác jean-martin. Anh bị ảnh hưởng bởi Ambroise-August Liebault và Hippolyte-Marie Bernheim, những người đã dạy anh thôi miên khi ở Pháp. Sau khi học ở Pháp, Freud trở về Vienna và bắt đầu công việc lâm sàng của mình với những bệnh nhân mắc chứng cuồng loạn. khoảng từ năm 1887 đến năm 1897, công việc của ông với những bệnh nhân này đã dẫn đến sự phát triển của phân tâm học.

ông Sigmund Freud là một nhà thần kinh học và tâm lý học người Áo. Ông là người đặt nền móng và phát triển lý thuyết phân tâm học. Cho đến ngày nay, mặc dù lý thuyết phân tâm của ông còn gây tranh cãi và hiệu quả của các phương pháp phân tâm của ông vẫn được so sánh với các phương pháp điều trị khác, nhưng ông phải được công nhận là một nhà tư tưởng có ảnh hưởng của thế kỷ 20.

2. giới thiệu con đường đến với khoa học của sigmund freud

Trong thời gian Sigmund Freud theo học y khoa, ông đã tỏ ra rất quan tâm đến sinh lý học y học và sớm thực hiện các nghiên cứu sinh lý học rất quan trọng, mặc dù tuổi còn trẻ. Năm 1876, ông được nhận vào làm nghiên cứu sinh tại Viện Sinh lý Ernst Brücke nổi tiếng, nơi ông tiếp tục nghiên cứu các vấn đề trong sinh lý học thần kinh.

Năm 1881, ông vừa tốt nghiệp đại học và được công nhận là bác sĩ y khoa. Nhưng bản thân Freud chưa bao giờ coi mình là một bác sĩ hành nghề và trong suốt thời gian này, Freud luôn tìm kiếm hướng đi sâu hơn trong lĩnh vực sinh lý học y tế, tiếp tục công việc của mình với tư cách là một nhà vật lý trị liệu cho đến khi anh tham gia.

Năm 1882, Freud gặp, yêu và đính hôn với Martha Bernay, một cô gái nhỏ thông minh xuất thân trong một gia đình có truyền thống văn hóa và trí thức Do Thái. điều kiện làm việc ở viện sinh lý không cho phép freud có thể chăm sóc cả một gia đình, thậm chí một gia đình nhỏ. Nếu muốn kết hôn, anh ấy phải kiếm thêm thu nhập, vì vậy anh ấy quyết định nghỉ việc ở bác sĩ sinh lý và đến làm việc tại bệnh viện đa khoa Vienna. đã gặp nhiều thất bại khi dùng đến nghiên cứu phân tâm học.

3. giới thiệu một số lý thuyết về sigmund freud

Mặc dù Freud là một nhà tư tưởng sớm, các lý thuyết và nghiên cứu của ông đã bị ảnh hưởng bởi công việc của các học giả khác, bao gồm cả Breuer và Charcot. Tuy nhiên, Sigmund Freud đã phát triển các nghiên cứu khoa học của riêng mình khác với lý thuyết của các đồng nghiệp. trên thực tế, phần lớn khái niệm của anh ấy đến từ quá khứ của anh ấy, như trong tác phẩm của anh ấy có tựa đề Diễn giải những giấc mơ. ở đây, anh đi sâu vào cuộc khủng hoảng cảm xúc mà anh đã trải qua trong cái chết của cha mình, cũng như những trận chiến với những giấc mơ đã đến với anh trong những năm đầu đời. anh ấy đã trải qua một cảm xúc tương phản giữa căm ghét / xấu hổ và yêu thương / ngưỡng mộ đối với cha mình.

Ông. Freud cũng thừa nhận rằng sâu thẳm trong anh ta có những tưởng tượng, trong đó anh ta thầm mong cha mình sẽ chết khi coi anh ta là đối thủ vì tình cảm của mẹ anh ta, và đó là một trong những cơ sở lý thuyết của anh ta về phức hợp Oedipus. Cụ thể, một số giả thuyết của anh ấy như sau:

a. thuyết vô thức

ông Sigmund Freud tin rằng chứng loạn thần kinh và các tình trạng tâm thần bất thường khác bắt nguồn từ tâm trí vô thức. tuy nhiên, những vấn đề này từ từ bộc lộ qua nhiều phương tiện khác nhau, chẳng hạn như hành vi ám ảnh, trượt lưỡi và những giấc mơ. lý thuyết của ông là đi sâu vào nguyên nhân cơ bản của những vấn đề này, có thể được thực hiện bằng cách kiểm tra tâm trí tỉnh táo của một người bị ảnh hưởng bởi vô thức.

sigmund freud cũng nghiên cứu phân tích các động cơ thúc đẩy hoặc bản năng và cách chúng phát sinh trong mỗi người. Theo ông, có hai loại bản năng chính: eros hay bản năng sống và thanatos hay bản năng chết. cái trước bao gồm bản năng khêu gợi và tự bảo vệ bản thân, trong khi cái sau liên quan đến động cơ dẫn đến sự tàn ác và tự hủy hoại bản thân. do đó, hành động của con người không hoàn toàn xuất phát từ động cơ có tính chất tình dục vì động cơ tử vong hầu như không liên quan đến tình dục như một yếu tố thúc đẩy.

b. tình dục trẻ em

Lý thuyết về tình dục trẻ sơ sinh của Sigmund Freud bị ảnh hưởng bởi quan niệm của Breuer rằng những sự kiện đau thương trong những năm thơ ấu của một người có thể ảnh hưởng lớn đến tuổi trưởng thành. Hơn nữa, Freud nói rằng ham muốn về khoái cảm tình dục xuất hiện ngay khi đứa trẻ đạt được khoái cảm khi bú. Ông gọi đây là giai đoạn phát triển bằng miệng, sau đó là giai đoạn hậu môn, nơi mà giai đoạn sau tham gia vào việc giải phóng năng lượng qua hậu môn. sau đó, trẻ bắt đầu có hứng thú với bộ phận sinh dục trong thời kỳ sung mãn, cũng như có sức hấp dẫn tình dục đối với cha mẹ khác giới. cuối cùng, giai đoạn cuối là giai đoạn của cuộc đời khi ham muốn tình dục ít rõ rệt hơn và có thể kết thúc ở tuổi dậy thì.

sigmund freud tin rằng những xung đột chưa được giải quyết trong thời thơ ấu có thể có tác động tiêu cực đến sức khỏe tâm thần khi một người đến tuổi trưởng thành. ví dụ, đồng tính luyến ái được coi là kết quả của các vấn đề liên quan đến phức hợp oedipus, vẫn chưa được giải quyết. đó cũng là kết quả của việc một đứa trẻ không thể xác định được với cha / mẹ cùng giới tính của mình.

c. khung của tâm trí

sigmund freud khẳng định rằng tâm trí có ba yếu tố cấu trúc, trong số đó:

-nhận dạng;

– bản ngã; và

– siêu phẩm.

do đó, id liên quan đến ham muốn tình dục bản năng, phải được thỏa mãn. đi là lương tâm của một người, trong khi siêu nhân đối phó với lương tâm. Xem xét các thành phần cấu trúc này của tâm trí, điều quan trọng là phải hiểu nó như một hệ thống năng lượng động. Để đạt được sức khỏe tinh thần, điều quan trọng là tất cả các yếu tố này kết hợp với nhau. nếu không, các vấn đề tâm lý tiềm ẩn bao gồm thần kinh ức chế, thoái lui, thăng hoa và cố định.

d. phân tâm học như điều trị lâm sàng bệnh thần kinh

Khái niệm chính đằng sau phân tâm học là thử và điều trị bất kỳ vấn đề nào nảy sinh từ sự bất hòa với ba yếu tố cấu trúc của tâm trí. các kỹ thuật quan trọng chủ yếu liên quan đến một nhà phân tích tâm lý, người khuyến khích người đó nói chuyện một cách thoải mái về các triệu chứng, tưởng tượng và khuynh hướng của họ. do đó, liệu pháp phân tâm hướng tới việc đạt được kiến ​​thức về bản thân khi bệnh nhân có thể xác định và xử lý các lực lượng vô thức có thể thúc đẩy hoặc làm họ sợ hãi. bất kỳ năng lượng tâm linh bị kìm nén hoặc hạn chế nào cũng được giải phóng, điều này cũng giúp điều trị bệnh tâm thần. tuy nhiên, có một số nghi ngờ về tính hiệu quả của kỹ thuật này, vì nó vẫn còn để ngỏ các cuộc tranh luận và tranh cãi giữa các học giả.

4. Khám phá của sigmund freud trong phân tâm học

Năm 1885, ông được thăng chức giáo sư danh dự tại trường đại học này, một vị trí rất được kính trọng. Lúc này, tâm thần học bắt đầu phát triển ở châu Âu, đặc biệt là ở Pháp. ở đây, chứng cuồng loạn và thôi miên là những chủ đề y học nghiêm túc, được nghiên cứu, ghi nhận và gây tranh cãi trong giới y khoa. Người tiên phong trong lĩnh vực này là Jean Martin Charcot, một nhà thần kinh học vĩ đại. bệnh viện salpêtrière de charcot đã trở thành thánh địa cho các nhà thần kinh học.

tuy nhiên, ở Đức và Úc, chứng cuồng loạn bị coi thường, cộng đồng y tế ở đây coi đây là bệnh của phụ nữ, không thể tìm ra nguyên nhân triệu chứng. người bệnh tâm thần bị đánh giá thấp, trong bệnh viện họ được điều trị bằng kích thích điện và thuốc không hiệu quả.

nhà tâm lý học sigmund freud, giống như các nhà khoa học thần kinh khác, đã đến bệnh viện charcot. Bởi vì chính tài năng, kiến ​​thức và uy tín của Charcot đã khiến Sigmund Freud phấn khích.

trong một bức thư sigmund freud gửi cho vợ sắp cưới của mình, martha, đã viết: “không ai ảnh hưởng đến tôi nhiều như vậy”. đã dịch các bài viết của Charcot sang tiếng Đức. Và chính Charcot là người đã dành cho Freud một niềm yêu thích đặc biệt đối với bệnh lý tâm thần. Ông cũng treo một bức khắc của André Brouillet “Bài học lâm sàng của bác sĩ Charcot” tại phòng khám của ông ở 19 rue Berggasse, đứa con đầu lòng của người được sinh ra vào năm 1889 mà ông cũng đặt tên là Jean Martin theo tên người thầy của mình. Trong cuộc đời làm việc sau này của mình, Freud thường trích dẫn câu nói của Charcot: “lý thuyết thì tốt nhưng thực hành không tồn tại”, để phê phán thái độ chỉ chấp nhận kiến ​​thức có được mà không hề phản biện.

vào năm 1930, freud nhận được goethe.

5. quan điểm của sigmund freud và một số triết gia khác về phân tâm học

theo sigmund freud, phân tâm học đã được hiểu là vừa cấp tiến vừa bảo thủ. trong những năm 1940, ông bị cộng đồng trí thức Âu Mỹ coi là bảo thủ. Các nhà phê bình bên ngoài phong trào phân tích tâm lý, dù ở bên trái hay bên phải, đều coi Freud là một người bảo thủ.

nhà triết học fromm đã lập luận rằng một số khía cạnh của lý thuyết phân tâm phục vụ lợi ích của phản ứng chính trị trong nỗi sợ hãi tự do của sigmund freud (1942), một đánh giá được hỗ trợ bởi sigmund freud. các nhà văn đồng cảm với lẽ phải.

trong nhà tâm lý học sigmund freud: “tâm trí của nhà đạo đức (1959), philip rieff” mô tả freud như một người thúc giục mọi người cố gắng hết sức vì số phận bất hạnh không thể tránh khỏi và đáng được nhận. ngưỡng mộ vì lý do đó.

>

Vào những năm 1950, Herbert Marcuse đã thách thức cách giải thích phổ biến lúc bấy giờ rằng Freud là một người bảo thủ trong Eros and Civilization (1955), cũng như Lionel Trilling trong Freud và Cuộc khủng hoảng văn hóa I và Norman của ông. màu nâu trong Life vs. Death (1959). Eros và Civilization đã giúp mở ra ý tưởng rằng Freud và Karl Marx đang giải quyết các câu hỏi tương tự từ các quan điểm khác nhau đáng tin cậy ở bên trái. Marcuse chỉ trích chủ nghĩa xét lại tân Freud vì đã bác bỏ các lý thuyết có vẻ bi quan như bản năng chết, mà ông cho rằng có thể đi theo hướng không tưởng. Các lý thuyết của Freud cũng ảnh hưởng đến toàn bộ Trường phái Frankfurt và lý thuyết phê bình.

sigmund freud đã được Reich so sánh với marx, người đã nhìn thấy tầm quan trọng của freud đối với tâm thần học cùng với marx đối với kinh tế học, và bởi paul robinson, người coi freud là một nhà cách mạng đã có những đóng góp cho tư tưởng thế kỷ XX tương đương với những đóng góp của Marx vào thế kỷ XX. tư tưởng thế kỷ. Fromm gọi Freud, Marx và Einstein là “kiến trúc sư của thời hiện đại”, nhưng bác bỏ ý kiến ​​cho rằng Marx và Freud là đồng nghĩa, cho rằng Marx quan trọng hơn về mặt lịch sử với tư cách là một nhà khoa học có tư tưởng tốt hơn. Tuy nhiên fromm tin rằng freud sẽ thay đổi vĩnh viễn sự hiểu biết về bản chất con người. Gilles Deleuze và Felix Guattari đã viết trong Anti-Oedipus (1972) rằng phân tâm học cũng giống như Cách mạng Nga ở chỗ nó đã bị hư hỏng gần như ngay từ đầu. họ tin rằng điều này bắt đầu với sự phát triển của lý thuyết phức tạp oedipus của freud, mà họ coi là những người duy tâm.

jean-paul sartre chỉ trích lý thuyết của freud về vô thức trong vật chất và hư vô (1943), cho rằng ý thức về cơ bản là tự ý thức. Sartre cũng cố gắng điều chỉnh một số ý tưởng của Freud vào tác phẩm của ông về cuộc sống con người, do đó phát triển một “phân tâm học hiện sinh” trong đó các phạm trù nguyên nhân và kết quả được thay thế bằng các phạm trù mục đích. Maurice Merleau-Ponty coi Freud là một trong những nhà tiên đoán của hiện tượng học, trong khi Theodor W. Adorno coi Edmund Husserl, người sáng lập ra hiện tượng học, là phản đề triết học của Freud, viết rằng một nền chính trị chống lại tâm lý học của Husserl có thể chống lại tâm lý học của Husserl. paul ricœur coi freud là một trong ba ‘bậc thầy của sự nghi ngờ’, cùng với marx và nietzsche, bởi vì anh ta đã vạch trần ‘những điều dối trá và ảo tưởng của ý thức’. Ricœur và Jürgen Habermas đã giúp tạo ra một “phiên bản thông diễn học của Freud”, “khẳng định ông là người tiên phong quan trọng nhất trong việc chuyển từ hiểu biết theo chủ nghĩa kinh nghiệm về lĩnh vực con người sang cách giải thích theo chủ nghĩa kinh nghiệm,” một cách giải thích chủ quan và căng thẳng.

Louis Althusser đã dựa trên khái niệm định nghĩa lại của Freud để giải thích lại tác phẩm tư bản của Marx. Jean-François Lyotard đã phát triển một lý thuyết về vô thức đảo ngược công trình của Freud về công việc của những giấc mơ: đối với Lyotard, vô thức là một lực mà cường độ của nó thể hiện qua sự biến dạng chứ không phải là sự ngưng tụ. Jacques Derrida coi Freud là một nhân vật quá cố trong lịch sử siêu hình học phương Tây và cùng với Nietzsche và Heidegger là những tiền thân cho phe cấp tiến của chính ông.

Một số học giả coi Freud giống với Plato, cho rằng họ nắm giữ gần như cùng lý thuyết về giấc mơ và có những lý thuyết tương tự về cấu trúc ba bên của linh hồn hoặc nhân cách con người ngay cả khi thứ bậc giữa các phần của linh hồn gần như bị đảo ngược. .

ernest gellner lập luận rằng lý thuyết của sigmund freud là một sự đảo ngược của plato. Trong khi Plato nhìn thấy một hệ thống phân cấp vốn có trong bản chất của thực tại và dựa vào đó để xác nhận các quy tắc, Freud, với tư cách là một nhà tự nhiên học, không thể theo cách tiếp cận đó. Các lý thuyết của cả hai đều tạo ra sự song hành giữa cấu trúc của tâm trí con người và xã hội, nhưng trong khi Plato muốn củng cố siêu phàm, tương ứng với tầng lớp quý tộc, Freud muốn củng cố bản ngã, tương ứng với tầng lớp quý tộc.

Đối với ông, Paul Vitz một lần nữa so sánh phân tâm học của Freud với triết học của Thomas, lưu ý niềm tin của Thomas vào sự tồn tại của một “ý thức vô thức” và “việc sử dụng thường xuyên từ và khái niệm ‘ham muốn tình dục’, đôi khi theo một cách cụ thể hơn. ý nghĩa hơn freud, nhưng luôn theo một cách cụ thể hơn bằng cách đồng ý sử dụng freud. “vitz gợi ý rằng freud có thể không biết lý thuyết về vô thức giống như aquinas của mình.

( mk law company : bài viết được đăng với mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và các chủ trương chính sách của đảng và nhà nước, không nhằm mục đích thương mại các thông tin trên Chỉ mang tính chất tham khảo nên khi đọc những thông tin này bạn nên tham khảo ý kiến ​​của luật sư hoặc chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế).

Trên đây là nội dung bộ luật minh khuê được sưu tầm và biên soạn. Trong trường hợp có điều gì khó hiểu hoặc chưa rõ ràng trong nội dung truy vấn, hoặc thông tin nêu trong nội dung truy vấn khiến bạn chưa hiểu hết vấn đề hoặc có vấn đề, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được phản hồi từ bạn. khách hàng. nếu còn vướng mắc hãy trao đổi trực tiếp với bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6162 hoặc liên hệ văn phòng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ của pháp luật minh bạch

Chúng tôi mong được sự hợp tác của bạn!

lời chào!

minh khuê luật (biên soạn và chỉnh sửa).

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here