HIẾN ĐỊNH LÀ GÌ

0
251
HIẾN ĐỊNH LÀ GÌ

Về nguyên tắc hiến định: Đảng chịu sự giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về các quyết định của mình

Hiến pháp năm 2013 quy định Đảng cộng sản Việt Nam gắn bó với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về các quyết định của mình. Mối quan hệ gắn bó với nhân dân của Đảng đã được thể chế hóa, cụ thể hóa trong nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước. Bài viết này tập trung vào việc thể chế hóa và cụ thể hóa nguyên tắc hiến định: Đảng chịu sự giám sát của nhân dân và phản ứng trước nhân dân về các quyết định của mình. bạn đang xem: hiến pháp là gì?

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm nông dân HTX Hùng Sơn (huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên)

gặt lúa, 1954. Ảnh: tài liệu

1. quá trình phát triển nhận thức về vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của đảng

ngay trong cuốn sách “con đường cách mạng” xuất bản năm 1927, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra câu hỏi: cách mạng trước hết phải có cái gì? và Người trả lời: “Trước hết phải có đảng cách mạng, vận động và tổ chức quần chúng bên trong, liên lạc với dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản ở khắp mọi nơi. Đảng có cách mạng mạnh thì thắng lợi, cũng như ông người chèo lái con tàu có thể chạy “& lt; 1 & gt ;. Người cũng nêu rõ “sức mạnh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn và vô hạn. nhưng lực lượng đó cần có sự lãnh đạo của đảng thì mới chắc thắng ”& lt; 2 & gt ;.

Đảng cộng sản Việt Nam (1986) xác định: “Đảng cộng sản Việt Nam là nòng cốt của chế độ chuyên chính vô sản ở nước ta, tập trung công sức của toàn dân, xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa trong cả nước, bảo vệ độc lập, thống nhất vĩnh viễn ”& lt; 3 & gt ;.

Đại hội Đảng (năm 1991) đã thông qua chương trình xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã xác định rõ vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của đảng: “Đảng soi đường cho cả hệ thống chính trị, đồng thời là một phần của hệ thống đó là đảng có quan hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật ”& lt; 4 & gt ;. Đây là lần đầu tiên chủ đề Đảng chịu sự giám sát của nhân dân được xác định trong văn kiện Đảng. Đại hội Đảng lần thứ 8 và 9 tiếp tục khẳng định vai trò, trách nhiệm của Đảng được xác định trong Cương lĩnh năm 1991.

Đại hội Đảng lần thứ 10 (2006) đã xác định rõ hơn, Đảng cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền lực của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; tin dân xây dựng đảng; đoàn kết, lãnh đạo nhân dân thực hiện sự nghiệp cách mạng. đảng điều hành hệ thống chính trị; nó cũng là một phần của hệ thống đó. Đảng lãnh đạo, tôn trọng và phát huy vai trò của nhà nước, mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội.

Đại hội Đảng bộ Xi (2011) đã thông qua Chương trình xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định rõ hơn Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Cương lĩnh (được bổ sung và phát triển năm 2011) cũng đã bổ sung nhận thức về vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của Đảng: “Đảng cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã hội … đảng … lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời, một bộ phận của hệ thống đó là đảng gắn bó với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền thống trị của nhân dân, tin tưởng xây dựng đảng của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và hoạt động trong khuôn khổ của hiến pháp và pháp luật.; 5 & gt ;. đây là sự phát triển tư duy lý luận của đảng.

Như vậy, chủ đề Đảng chịu sự giám sát của nhân dân đã được khẳng định trong các văn kiện của Đảng từ Đại hội VII đến nay.

2. quá trình hình thành vai trò lãnh đạo của đảng trong hiến pháp

Hiến pháp năm 1946 và 1959 chưa xác định vai trò lãnh đạo của đảng. trong hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, điều 4 quy định: Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được trang bị học thuyết marxist. – Lenin là lực lượng duy nhất điều hành nhà nước và xã hội; nó là nhân tố then chốt quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. đảng tồn tại và chiến đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam. các tổ chức đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp.

Thể chế hóa Chương trình xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII thông qua, Điều 4, Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 tiếp tục vai trò lãnh đạo của Đảng: Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa và tư tưởng Hồ Chí Minh là lực lượng lãnh đạo của nhà nước và xã hội. tất cả các tổ chức đảng đều hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.

thể chế hóa Chương trình xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), kế thừa các Hiến pháp năm 1980 và 1992, Điều 4, Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định:

“1. Đảng cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và nhân dân Việt Nam. toàn dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, động lực phát triển của nhà nước và xã hội.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.

3. Các tổ chức đảng và đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. ”& Lt; 6 & gt ;.

Quy định: Đảng cộng sản gắn bó với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình, đó là một trong những điểm mới trong hiến pháp. so với các bản hiến pháp trước đây.

Các bản hiến pháp của Việt Nam được nhân dân thảo luận và thông qua. kể từ khi có bản hiến pháp đầu tiên của nước cộng hòa dân chủ việt nam, nay là nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam đã ghi nhận quyền lập hiến của nhân dân. điểm c, điều 70 hiến pháp năm 1946 quy định những thay đổi đã được quốc hội thông qua phải được toàn thể nhân dân đồng ý. khoản 4 điều 120 hiến pháp 2013 quy định hiến pháp được thông qua phải được ít nhất 2/3 tổng số đại biểu quốc hội tán thành. cuộc trưng cầu dân ý về hiến pháp do quốc hội quyết định. xem thêm: kỹ năng sinh tồn trong rừng khi bị lạc, nếu trong rừng bị cây đổ

do đó, có thể nói vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội của đảng đã đảm bảo tính chính danh.

3. thực trạng thể chế hoá và cụ thể hoá: đảng chịu sự kèm cặp của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình

a. thực trạng thể chế hoá và cụ thể hoá: đảng dưới sự kèm cặp của nhân dân

Điều lệ đảng – “luật” đảng do Đại hội đại biểu toàn quốc thông qua quy định: Đảng gắn bó với nhân dân, tôn trọng quyền thống trị và chịu sự giám sát của nhân dân, đoàn kết và lãnh đạo. là sự nghiệp cách mạng. đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và cũng là một bộ phận của hệ thống đó. Đảng tôn trọng vai trò của nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể, hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật ”& lt; 7 & gt ;. Điều lệ đảng được thông qua tại các đại hội VIII, IX, X, XI và XII đều xác định: Đảng chịu sự giám sát của nhân dân.

Đảng và nhà nước đã ban hành các văn bản để thể chế hóa và chỉ rõ: Đảng đặt dưới sự giám hộ của nhân dân.

Mặc dù pháp lệnh không. 34 không đề cập trực tiếp đến sự giám sát của nhân dân đối với đảng là giám sát công việc của hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân và cán bộ của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân xã, huyện, thị xã mà gián tiếp đề cập đến sự giám sát của nhân dân. trong bữa tiệc. bởi vì, trong mọi quyết định của hội đồng bình dân, ban bình dân có vai trò lãnh đạo của đảng.

b. thực trạng thể chế hóa và cụ thể hóa: đảng chịu trách nhiệm trước nhân dân về các quyết định của mình

Trách nhiệm của đảng đối với nhân dân thể hiện ở nội dung và phương thức lãnh đạo của đảng. Cương lĩnh năm 1991 xác định: “Đảng lãnh đạo xã hội thông qua cương lĩnh, chiến lược, định hướng chính trị và đường lối công tác; tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và nêu gương của đảng viên. chi bộ giới thiệu những đoàn viên ưu tú có đủ năng lực, phẩm chất vào công tác trong các cơ quan chính quyền, đoàn thể. đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác của hệ thống chính trị ”& lt; 8 & gt ;.

nền tảng (được bổ sung và phát triển năm 2011) đã xác định rõ ràng hơn: “Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, định hướng chính sách và các cam kết quan trọng; tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và nêu gương của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có năng lực, phẩm chất vào các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. sự lãnh đạo của đảng thông qua các tổ chức đảng và dân quân hành động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là của những người đương nhiệm ”& lt; 9 & gt ;.

Đại hội Đảng lần thứ XII (2016) xác định: “Tiếp tục cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng được xác định trong Chương trình xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) ở các cấp với những định mức, quy định cụ thể. và các thủ tục. xác định rõ hơn Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; về quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu và mối quan hệ giữa tập thể cấp ủy, tổ chức đảng với người đứng đầu, bảo đảm thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân chịu trách nhiệm cùng với phát huy vai trò, trách nhiệm, tính chủ động của người đứng đầu và cơ chế quản lý người đứng đầu khi hiếp dâm. xác định rõ hơn thẩm quyền và trách nhiệm của ban chấp hành trung ương, bộ chính trị, ban bí thư, cấp ủy và ban thường vụ các cấp. ”& lt; 10 & gt ;.

Ban Chấp hành Trung ương các khóa ban hành Quy chế làm việc, quy định trách nhiệm, quyền hạn của Ban Chấp hành Trung ương, Ủy viên Thường vụ và Dự khuyết của Ban Chấp hành Trung ương; từ bộ chính trị, ban bí thư; của tổng bí thư, ủy viên bộ chính trị, ủy viên ban bí thư, ủy viên bộ chính trị là chủ tịch nước, thủ tướng chính phủ, chủ tịch quốc hội, các ủy viên ban bí thư. . Về trách nhiệm, quyền hạn của ban chấp hành trung ương, quy chế quy định ban chấp hành trung ương là cơ quan lãnh đạo của đảng giữa hai kỳ đại hội, chịu trách nhiệm trước toàn đảng và toàn dân về tình hình mọi mặt của đảng và của bên. đất nước; quyết định những vấn đề chiến lược và chủ trương, chính sách chủ yếu về kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, công tác xây dựng đảng, quản lý và thực hiện đường lối chính trị, điều lệ đảng, nghị quyết đại hội đảng bộ. Bộ chính trị quyết định những cam kết chủ yếu, chính sách, pháp luật để thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện cương lĩnh chính trị, điều lệ đảng, nghị quyết đại hội, nghị quyết của ban chấp hành trung ương. ban bí thư chỉ đạo công việc hàng ngày của chi bộ. ban chấp hành trung ương các khóa cũng ban hành quy chế làm việc của ủy ban kiểm tra trung ương.

Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương đang được hoàn thiện và ngày càng hoàn thiện hơn. So với Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI trở về trước, Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã quy định rõ hơn trách nhiệm, quyền hạn, phương thức và phương pháp làm việc. các chức vụ lãnh đạo cấp cao của đảng và nhà nước; bổ sung, sửa đổi nhiều điểm về quyền hạn của ban chấp hành trung ương, đặc biệt là trách nhiệm và quyền hạn của tổng bí thư được bổ sung bằng quy định: “hàng tháng và khi cần thiết, tổng bí thư chủ trì họp với đồng chí chủ tịch nước, bộ trưởng thứ nhất, Chủ tịch Quốc hội, bạn chân của Ban Bí thư. ”Cấp ủy các cấp cũng ban hành và hoàn thiện quy chế làm việc của cấp mình.

Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, việc thể chế hóa, cụ thể hóa nguyên tắc hiến định: Đảng chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về các quyết định của mình vẫn còn nhiều hạn chế. đảng tự chịu trách nhiệm về các quyết định của mình trước nhân dân. ban chấp hành trung ương, cấp ủy các cấp, các khóa đều ban hành quy chế làm việc, nhưng chỉ lưu hành trong nội bộ, đảng viên và nhân dân không biết. do đó, nhân dân không có đủ lý do để giám sát, xem xét trách nhiệm và thẩm quyền của đảng, và nhất là không có đủ lý do để xem xét xử lý kỷ luật đối với cấp ủy, tổ chức đảng.

4. một số khuyến nghị

(1) Trong những năm gần đây, một số ý kiến ​​cho rằng nên điều tra và ban hành trận đấu. Các ý kiến ​​cho rằng, Đảng tiến hành và chỉ đạo việc ban hành hiến pháp, luật tổ chức quốc hội, luật tổ chức chính quyền, luật tổ chức chính quyền địa phương, luật mặt trận, luật đoàn thể. , v.v. là một tổ chức chính trị thì cũng phải có luật đảng để bảo đảm tính chính danh, minh bạch và công khai vai trò lãnh đạo của đảng. ngược lại, nhiều ý kiến ​​cho rằng không nên ban hành luật đảng. hiến pháp tôn trọng vai trò lãnh đạo của đảng. Điều lệ, Điều lệ, Quy chế Đảng đã ban hành cũng là văn bản quy phạm pháp luật. vấn đề có nên ban hành luật về đảng hay không cần được nghiên cứu thêm.

(2) góp ý vào dự thảo báo cáo chính trị trình đại hội xiii (dùng trong đại hội đảng bộ cấp huyện, tỉnh và tương đương).

Dự thảo báo cáo chính trị đánh giá 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội XII, trong đó có đánh giá: “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, lấy nhà nước làm trung tâm, còn chậm đổi mới, còn lúng túng trong cơ chế kiểm soát. quyền lực trong đảng và nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực và hiệu quả chưa cao Cần bổ sung đánh giá: “việc cụ thể hóa phương thức chỉ đạo của đảng đã được xác định trong chương trình các cấp bằng những quy định cụ thể, quy định, quy trình chưa rõ Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về quyết định của mình, về quyền hạn, trách nhiệm của người đương nhiệm và mối quan hệ giữa tập thể cấp ủy, tổ chức đảng và lãnh đạo, bảo đảm thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ và cơ chế xử lý của tổ chức đảng và đảng viên. nguyên nhân vi phạm. ”

Dự thảo báo cáo chính trị nêu phương hướng, nhiệm vụ tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, nhất là nhà nước trong điều kiện mới:

“Tiếp tục cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng được xác định trong Chương trình xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) ở các cấp bằng các quy định, quy chế, quy trình cụ thể. quy định rõ đảng gắn bó với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; về quyền và trách nhiệm của sếp và mối quan hệ giữa tập thể dân chủ, tập thể lãnh đạo và tập thể chịu trách nhiệm, bên cạnh việc đề cao vai trò, trách nhiệm, sự chủ động của sếp và tổ chức xử phạt khi có hành vi vi phạm. xác định rõ hơn thẩm quyền và trách nhiệm của ban chấp hành trung ương, bộ chính trị, ban bí thư, cấp ủy, ban thường vụ và ban thường vụ các cấp. tăng cường phân cấp, phân quyền gắn với kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện phân cấp, phân quyền và phòng, chống tham nhũng quyền lực; Có cơ chế để các địa phương phát huy quyền chủ động, sáng tạo, gắn với trách nhiệm cao, đồng thời bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý thống nhất của Trung ương ”. các khu du lịch gần Sài Gòn

Cần thay cụm từ “tiếp tục” bằng từ “đẩy mạnh” trong câu: “tiếp tục cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của đảng …” bằng “đẩy mạnh cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của đảng …”. … “vì Đại hội XII đã xác định” tiếp tục cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng … “Thực tiễn đòi hỏi phải” đẩy mạnh việc cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của đảng … “. Thay cụm từ” quy định cụ thể “bằng cụm từ” thể chế hóa , cụ thể hóa “trong câu:” quy định cụ thể Đảng gắn bó với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình “bằng cách” thể chế hóa, cụ thể hóa nguyên tắc Đảng gắn bó với nhân dân. , phục vụ nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về các quyết định của mình “. có đoạn viết:” nêu rõ nội quy, quy chế để cán bộ, dân quân và nhân dân biết, giám sát việc thực hiện nội quy, quy chế nói trên. Có cơ chế để xử lý tổ chức đảng, cá nhân có sai phạm ”bởi vì, Đại hội XII đã xác định:“ Đảng phục vụ nhân dân rõ ràng hơn. blo, chịu sự cảnh giác của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình … ”. thực tế không chỉ đòi hỏi tính cụ thể mà còn đòi hỏi thể chế hóa. đồng thời, công khai các quy định và tiêu chuẩn để mọi người tìm hiểu và giám sát.

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here